A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách, điểm nghẽn của nền kinh tế: Khuyến nghị từ Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2023

Cần phải tập trung, nỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách, khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn của nền kinh tế, kiên định các mục tiêu dài hạn; tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực tăng trưởng... là yêu cầu khách quan, tất yếu và cấp thiết, giúp đất nước vượt qua thách thức, duy trì đà tăng trưởng, hướng tới phát triển bền vững. Đó là nhận định chung của đại biểu tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2023.

 

Toàn cảnh Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2023

Sau đại dịch COVID-19, trên con đường hồi phục, hầu hết các nền kinh tế thế giới lại phải gặp thách thức lớn khác là sự bùng nổ của giá cả hàng hoá và năng lượng. Sự nới lỏng tiền tệ chưa từng có trong giai đoạn 2020-2021 cộng hưởng tác động của xung đột Nga – Ukraine đã kích hoạt lạm phát trên quy mô toàn cầu kể từ cuối năm 2022. Để đối phó, hầu hết các ngân hàng Trung ương lớn trên thế giới đã thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất liên tục, kéo dài suốt hơn một năm qua. Đồng thời, nhiều nước cũng cần phải giảm bớt, thu hồi các gói hỗ trợ tài khoá do thâm hụt ngân sách tăng cao và nợ công đụng trần. Tăng trưởng GDP toàn cầu dự báo giảm từ mức 3,5% trong năm 2022 xuống mức 3% (IMF, tháng 7/2023) hoặc 2,7-2,9% (OECD, tháng 6/2023) trong các năm 2023 và 2024.

Việc Quốc hội, Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp quyết liệt, kịp thời, sát thực, chưa từng có tiền lệ trong suốt 2,5 năm qua từ sau Đại hội XIII của Đảng, đã góp phần giúp Việt Nam vẫn đứng vững, cơ bản vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, được quốc tế và trong nước ghi nhận. Nền kinh tế vẫn duy trì được đà tăng trưởng và vẫn là một “điểm sáng” trong “bức tranh màu xám” của nền kinh tế toàn cầu.

Cùng với tăng trưởng 8,02% trong năm 2022, quy mô GDP theo giá hiện hành của Việt Nam đứng thứ 38 thế giới, nếu tính theo sức mua tương đương PPP, theo IMF đứng thứ 10 Châu Á và thứ 24 thế giới. Quy mô ngoại thương 2022 đạt gần 735 tỷ USD, thu hút đầu tư FDI đạt gần 450 tỷ USD từ 143 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Tuy nhiên, từ Quý IV/2022, kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, rất khó đạt chỉ tiêu cả năm 2023 là khoảng 6,5% theo Nghị quyết của Quốc hội. Ngoài nông nghiệp vẫn là “trụ đỡ”, các động lực tăng trưởng là đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng đều khó khăn, tăng trưởng thấp, thậm chí đều gặp “trục trặc”, giảm tốc. Điều đáng lưu ý là cả 3 động lực tăng trưởng hiện nay của nền kinh tế đều gặp khó khăn mang tính cơ cấu, do thiếu định hướng dài hạn và giải pháp cụ thể kịp thời, khả thi theo hướng chuyển đổi xanh, giảm thiểu thâm dụng năng lượng, phát thải các bon và kinh tế tuần hoàn và luôn bám sát mục tiêu phát triển bền vững.

Trong bối cảnh đó, tại “Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2023: Tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển bền vững”, nhiều gợi ý chính sách quan trọng, ý nghĩa, thiết thực đã được đưa ra nhằm hướng tới tăng trưởng và phát triển bền vững nền kinh tế.

Theo đó, các đại biểu đều thống nhất và nhấn mạnh rằng cần phải “làm mới” các động lực tăng trưởng cũ, các động lực tăng trưởng truyền thống trên cơ sở ban hành, thực thi khuôn khổ chính sách, pháp luật để khuyến khích các thay đổi hành vi trong cả tiêu dùng, sản xuất và đầu tư. Ngược lại, nếu việc ban hành, thực thi các chính sách chỉ mang tính hành chính, sự vụ, phản ứng thụ động, thiếu định hướng dài hạn theo mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tiếp tục làm suy giảm niềm tin của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và sẽ làm suy giảm đáng kể tăng trưởng kinh tế cả về quy mô và chất lượng. Khôi phục, củng cố niềm tin đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp là thông điệp xuyên suốt tại Diễn đàn.

Bên cạnh củng cố, “làm mới” các động lực tăng trưởng hiện hữu, Diễn đàn cũng nhấn mạnh phải phát hiện, khai thác hiệu quả những động lực tăng trưởng mới, đặc biệt là các động lực như phát triển kinh tế số, tăng năng suất lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, nhất là cho chuyển đổi số một cách bền vững, an toàn, chuyển đổi năng lượng công bằng, thích ứng biến đổi khí hậu; tăng cường phối hợp với các quốc gia trong việc duy trì các chuỗi cung ứng hiện có, hợp tác phát triển các chuỗi cung ứng có tính chất chiến lược, có tính đột phá, lan toả, nâng cao vị thế Việt Nam trong các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu trong bối cảnh các nước trên thế giới đều đang cơ cấu lại các chuỗi cung ứng và đầu tư cho riêng mình trong môi trường liên kết kinh tế thế giới.

Theo tinh thần đó, các ý kiến tại Diễn đàn đều nhất trí rằng cần phải vừa tập trung, nỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách, khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn của nền kinh tế (đã được nêu tại Nghị quyết số 101/2023/QH15 tại Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XV, Kết luận của Bộ Chính trị về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và những nhiệm vụ chính trong 6 tháng cuối năm), đồng thời, luôn cần phải kiên định và đặt trong bối cảnh các mục tiêu dài hạn; vừa phải phát huy ý chí tự cường, năng lực “nội sinh” của nền kinh tế, vừa tranh thủ khai thác và phát huy “ngoại lực”, tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả. Đây là một xu hướng tất yếu, không thể đảo ngược.

Về năng lực, động lực nội sinh của nền kinh tế, các đại biểu cho rằng cần phát triển các khu vực sản xuất của nền kinh tế, gồm khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, kích cầu tiêu dùng, phát triển thị trường nội địa và nâng cao năng suất lao động. Thực hiện đồng bộ, cộng hưởng các yếu tố này sẽ phát huy tổng hợp sức mạnh nội sinh của nền kinh tế. Chuyên gia đề nghị tránh can thiệp quá mức, đột ngột bằng các biện pháp hành chính vào hoạt động kinh tế.

Trong thời gian tới, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, các đại biểu đề xuất cần nghiên cứu, ban hành mới hoặc kéo dài các chính sách tiền tệ, chính sách thuế, phí, lệ phí... để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Bảo đảm sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và ổn định thị trường tài chính; tiếp cận hài hòa hơn giữa mục tiêu lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế.

Có ý kiến cho rằng sử dụng công cụ lãi suất đã gần đến điểm tới hạn, có ý kiến đề nghị cần sử dụng các công cụ mạnh mẽ hơn như dự trữ bắt buộc và tái cấp vốn để cung ứng một lượng vốn với lãi suất thấp và có tính ổn định hơn vào hệ thống ngân hàng thương mại để giảm lãi suất.

Ngân hàng Thế giới khuyến nghị theo dõi sát diễn biến giá năng lượng thế giới, tác động lên lạm phát, để có chính sách tiền tệ phù hợp, cân đối hài hòa giữa việc giảm lãi suất và ổn định tỷ giá.

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đề nghị cải cách thị trường tài chính theo hướng tuân thủ nhiều hơn các quy luật của kinh tế thị trường; tập trung nâng cao năng lực tài chính và tăng sức chống chịu của hệ thống ngân hàng thương mại thông qua tăng vốn điều lệ của các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại Nhà nước và ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước chi phối; tăng cường năng lực can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính. Phối hợp chính sách hiệu quả (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác) nhằm tiếp tục giảm lãi suất, bình ổn tỷ giá, giá cả hàng hóa thiết yếu và thúc đẩy tăng trưởng.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp, sớm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, cơ cấu lại các loại thị trường; thúc đẩy phát triển và quản lý chặt chẽ các thị trường tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản. Phát triển và khai thác hiệu quả thị trường trong nước, đẩy mạnh sức mua trong nước thông qua xúc tiến thương mại, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, kích cầu du lịch trong nước. Kích cầu tiêu dùng nội địa, theo tính toán của nhóm chuyên gia, nếu tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %.

Điều hành chính sách tài khóa có trọng tâm, trọng điểm, tạo chuyển biến căn bản trong giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các công trình giao thông trọng điểm; hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông như hệ thống đường cao tốc theo tuyến Bắc - Nam và Đông - Tây, đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị các dự án đường sắt tốc độ cao, nhất là trục Bắc - Nam, phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng số gắn với nâng cao năng lực nội tại; triển khai nhanh, hiệu quả Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh... Kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong triển khai, tiến tới xem xét sửa đổi Luật Đầu tư công và các quy định liên quan phù hợp.

Theo đánh giá của chuyên gia, nếu giải ngân được 95% kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 sẽ đóng góp tới 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023. Có chuyên gia đề nghị bên cạnh thúc đẩy các dự án hạ tầng trọng điểm, cần cân nhắc sử dụng tín dụng thuế đầu tư, một hình thức cam kết hoàn thuế dựa trên chi phí đầu tư vào những lĩnh vực Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực theo dõi và đánh giá về công tác lập dự toán và chấp hành dự toán.

Có ý kiến đề nghị trong giai đoạn hiện nay có thể chấp nhận bội chi cao và vay nợ nhiều hơn trong ngắn hạn là để có không gian tài khóa tốt hơn cho các nhiệm vụ phục hồi kinh tế, xã hội; có ý kiến đề nghị theo đuổi định hướng chính sách tài khóa nghịch chu kỳ, tăng cường chi tiêu hoặc giảm thuế trong thời kỳ khó khăn.

Nguồn nhân lực là động lực nội sinh cốt lõi của nền kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực, kỹ năng và chuyên môn của người lao động. Ngân hàng Thế giới cho rằng giải pháp chủ yếu để đạt được tốc độ tăng trưởng năng suất cao hơn nằm ở việc cải thiện các đặc điểm của lực lượng lao động trẻ hiện nay. Mặc dù có tỷ lệ tốt nghiệp cao đẳng, đại học cao hơn, nhưng nhóm dân số trẻ vẫn chủ yếu làm trong các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng trung bình. Cần mở rộng độ bao phủ, phổ cập giáo dục và nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (chú trọng kỹ năng, đạo đức kinh doanh, xây dựng những trường đại học có “đẳng cấp quốc tế” về khoa học và công nghệ...), tăng cường đào tạo kỹ năng nghề; chú trọng đầu tư, chuẩn bị trước một bước nguồn nhân lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tương lai, kể cả khoảng 50.000 nhân lực cho ngành bán dẫn đến năm 2028.

Việc ưu tiên đào tạo các tài năng cá biệt và các kỹ năng mới nổi phải là chính sách hàng đầu đối với Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. Đồng thời, cần nghiên cứu triển khai cấp bằng hoặc giấy chứng nhận hành nghề một cách thực chất theo tiêu chuẩn quốc tế, đúng với năng lực chuyên môn và kỹ năng của người lao động; giúp nâng cao trình độ, tính cạnh tranh của lực lượng lao động trong nền kinh tế. Đẩy mạnh hợp tác giữa các doanh nghiệp FDI và các trường đại học của Việt Nam để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và phù hợp với nhu cầu, yêu cầu của thị trường; đẩy mạnh hợp tác giữa các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp tư nhân trong nước để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, khoa học, ứng dụng khoa học, công nghệ để nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp.

Ngân hàng Thế giới đề nghị cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống bảo trợ xã hội mang tính thích ứng, tích hợp, dễ điều chỉnh và hiện đại để bảo vệ các hộ gia đình trước những cú sốc một cách hiệu quả hơn, đồng thời cải thiện độ bao phủ bảo hiểm xã hội để tăng tính đối phó với rủi ro thất nghiệp và bảo đảm thu nhập khi về già. Sớm thực hiện cải cách tiền lương trong năm 2024 cũng là một cú hích cho thị trường lao động và góp phần kích cầu tiêu dùng nội địa.

Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ cao, đòi hỏi trình độ lao động cao; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh. Phát huy thế mạnh nội lực của nền kinh tế gồm nền nông nghiệp nhiệt đới, lợi thế kinh tế biển, du lịch, phát triển kinh tế đô thị gắn với quá trình đô thị hoá. Sản xuất canh tác nông nghiệp bền vững. Phát triển các ngành công nghiệp nền tảng (như: công nghiệp cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, vật liệu, công nghiệp phục vụ nông nghiệp) nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, hiện đại, bảo đảm năng lực tự chủ, đáp ứng cơ bản nhu cầu về tư liệu sản xuất của nền kinh tế.

Tập trung nguồn lực, sửa đổi, bổ sung hệ thống các luật để khai thác tốt hơn các cơ hội, tạo động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng số hóa, xanh hóa, đổi mới sáng tạo như sửa đổi Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các luật thuế và ban hành các luật mới như Luật Phát triển công nghiệp, Luật Năng lượng tái tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số và các vấn đề liên quan đến áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ, đột phá thủ tục hành chính, môi trường đầu tư kinh doanh, kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, khôi phục, củng cố niềm tin, tạo luồng sinh khí mới trong môi trường kinh doanh./.


Nguồn:Theo Cổng Thông tin điện tử Quốc hội Sao chép liên kết