Chi tiết tin tức
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đánh giá kết quả giữa nhiệm kỳ việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025

Trong bối cảnh đó, với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; chủ trương, quyết sách kịp thời của Quốc hội; sự chủ động, linh hoạt, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, kịp thời ban hành các chính sách, giải pháp hỗ trợ người dân, nền kinh tế; sự đoàn kết, đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, triển khai tổ chức thực hiện một cách quyết liệu hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và những Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; đất nước ta vẫn vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực và được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

 

Tiến sĩ Nguyễn Chí Dũng

Ủy viên Trung ương Đảng

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

A. TÓM TẮT NỘI DUNG

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nước ta bước vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021-2025 trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh, mạnh, phức tạp, khó lường; khó khăn nhiều hơn thuận lợi. Khó khăn, thách thức mới xuất hiện, gay gắt, nặng nề hơn so với dự báo, cũng như so với cùng kỳ của một số nhiệm kỳ gần đây; ảnh hưởng sâu, rộng đến các quốc qua, đặc biệt là các nước đang phát triển, có độ mở lớn về kinh tế, trong đó có Việt Nam và rất khó để thích ứng, ứng phó kịp thời. Điều này đã tạo áp lực rất lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội 05 năm và hàng năm.

Trong nửa nhiệm kỳ qua, nước ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về: năng lực và khả năng kiểm soát, phòng chống dịch COVID-19, giúp đất nước trở lại trạng thái bình thường mới và phục hồi kinh tế, nâng cao khả năng điều hành, ứng phó với những biến động của thế giới, khu vực. Nền kinh tế đang tiếp tục phục hồi, các hoạt động kinh tế, xã hội chuyển từ trạng thái thích ứng, phục hồi sang phát triển nhanh và ổn định hơn, tập trung thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, hướng đến thực hiện đạt kết quả cao nhất các chỉ tiêu phát triển của Kế hoạch 5 năm.

Trong bối cảnh đó, với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; chủ trương, quyết sách kịp thời của Quốc hội; sự chủ động, linh hoạt, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, kịp thời ban hành các chính sách, giải pháp hỗ trợ người dân, nền kinh tế; sự đoàn kết, đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, triển khai tổ chức thực hiện một cách quyết liệu hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và những Nghị quyết, Kết luận, Chỉ thị của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; đất nước ta vẫn vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực và được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

B. NỘI DUNG BÀI THAM LUẬN

I. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIỮA NHIỆM KỲ VIỆC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2021-2025

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nước ta bước vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) 05 năm 2021-2025 trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh, mạnh, phức tạp, khó lường; khó khăn nhiều hơn thuận lợi. Khó khăn, thách thức mới xuất hiện, gay gắt, nặng nề hơn so với dự báo, cũng như so với nhiệm kỳ 2016-2020; ảnh hưởng sâu, rộng đến các quốc qua, đặc biệt là các nước đang phát triển, có độ mở lớn về kinh tế, trong đó có Việt Nam và rất khó để thích ứng, ứng phó kịp thời. Điều này đã tạo áp lực rất lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển KTXH 05 năm và hàng năm.

Đại dịch COVID-19 gây hậu quả nặng nề, kéo dài, tác động đến mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội của nhiều quốc gia. Cạnh tranh chiến lược của các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, gia tăng mức độ đối đầu, xu hướng tập hợp lực lượng, phân tuyến, phân cực ngày càng rõ nét. Xung đột Nga - U-crai-na kéo dài, gây đứt gãy, gián đoạn các chuỗi cung ứng, đồng thời làm sâu sắc, phức tạp thêm xu hướng cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế cũng như các vấn đề an ninh năng lượng, an ninh lương thực. Tình hình các nền kinh tế lớn dịch chuyển nhanh trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng cao; chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất tại nhiều quốc gia tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế, đầu tư, tiêu dùng. Tổng cầu yếu, thị trường xuất khẩu bị suy giảm; hàng rào bảo hộ, thương mại gia tăng. Xu hướng dịch chuyển sản xuất, dòng vốn đầu tư toàn cầu ngược trở lại các nước phát triển. Các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, thời tiết cực đoan, biến đổi khí hậu, thiên tai, động đất,… diễn ra với tần suất cao hơn, gây hậu quả nghiêm trọng tại nhiều quốc gia, khu vực; tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn cầu.

 Ở trong nước, dưới tác động của tình hình thế giới và hậu quả nặng nề của đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ… KTXH nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, rất gay gắt, nặng nề; hầu hết các ngành, các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng; vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp mới phát sinh, vừa phải xử lý các yếu kém, tồn đọng kéo dài từ nhiều năm trước để lại. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chúng ta, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Trong nửa nhiệm kỳ qua, nước ta đã tích lũy nhiều kinh nghiệm về: năng lực và khả năng kiểm soát, phòng chống dịch COVID-19, giúp đất nước trở lại trạng thái bình thường mới và phục hồi kinh tế; khả năng điều hành, ứng phó với những biến động của tình hình thế giới, khu vực được nâng cao. Nền kinh tế đang tiếp tục phục hồi, các hoạt động kinh tế, xã hội chuyển từ trạng thái thích ứng, phục hồi sang phát triển nhanh và ổn định hơn, tập trung thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu, hướng đến hoàn thành các mục tiêu phát triển của Kế hoạch 5 năm.

Nước ta đã duy trì được sự ổn định chính trị - xã hội, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo; môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, đối ngoại được đẩy mạnh, tiếp tục thúc đẩy cơ cấu lại kinh tế, đầu tư, thương mại, dịch vụ, đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững,… Các yếu tố này đóng vai trò nền tảng quan trọng để phục hồi và phát triển KTXH.

Đặc biệt là từ cuối năm 2022 đến nay, nền kinh tế phải chịu “tác động kép” từ các yếu tố tiêu cực bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm; lạm phát thế giới tăng mạnh, duy trì ở mức cao; Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và nhiều ngân hàng trung ương của các nước tăng lãi suất nhanh, mạnh để kiềm chế lạm phát. Trong nước, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên ngày càng nhiều, yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao, chúng ta phải tập trung xử lý các vấn đề tồn đọng kéo dài, tích tụ nhiều năm nay bộc lộ rõ hơn trong khó khăn, nhất là các hạn chế, bất cập của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản, chứng khoán, thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nền kinh tế có thời điểm bị khó khăn.

Đồng thời, nước ta là nền kinh tế đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, có độ mở lớn nhưng quy mô còn khiêm tốn, sức chống chịu còn hạn chế, dịch bệnh COVID-19 và những khó khăn, rủi ro, bất ổn về kinh tế, xã hội, địa chính trị thế giới, khu vực đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất trong nước và hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp, tài chính tiền tệ và một số thị trường như chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản. Ngoài ra, biến động về giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào, tạo áp lực lạm phát, chi phí sản xuất tăng cao. Rủi ro về chuỗi cung ứng, nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống bị thu hẹp, suy yếu; tác động khó lường, khó dự báo từ việc điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của nước ta cũng tạo ra nhiều áp lực lên nền kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh.

Nhìn chung, bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước diễn biến hết sức khó khăn, thách thức với tính chất nhanh, mạnh, khó lường, tác động lớn và khá toàn diện, mang tính cộng hưởng, đúng như đánh giá, nhận định của Đảng; có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn.

Trong bối cảnh đó, với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; chủ trương, quyết sách kịp thời của Quốc hội; sự chủ động, linh hoạt, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, kịp thời ban hành các chính sách, giải pháp hỗ trợ người dân, nền kinh tế; sự đoàn kết, đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; đất nước ta vẫn vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện, đáng mừng trên nhiều lĩnh vực và được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

1. Kết quả đạt được

1.1 Tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các giải pháp phòng, chống dịch COVID-19; trong đó có những giải pháp “chưa từng có”, nhằm khống chế, đẩy lùi dịch bệnh, chuyển hướng kịp thời chiến lược phòng, chống dịch. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 nhằm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả đại dịch COVID-19”; trình Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 25-KL/TW ngày 30/12/2021 về Chương trình phòng, chống dịch COVID-19 (năm 2022 - 2023); trình Quốc hội ban hành một số giải pháp cấp bách để ứng phó kịp thời, hiệu quả với dịch COVID-19; thực hiện có hiệu quả chiến lược vắc-xin. Nhờ đó, dịch bệnh sớm được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân trở lại bình thường, là nền tảng để phục hồi và phát triển KTXH.

1.2. Kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Lạm phát được kiểm soát[1]; điều hành tín dụng, lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến tình hình thế giới, trong nước, hỗ trợ hợp lý cho sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế liên tục xuất siêu[2]. Cân đối NSNN được đảm bảo, đáp ứng đầy đủ nhu cầu đầu tư phát triển, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh, cải cách tiền lương và các nhiệm vụ cấp thiết khác[3]... Xử lý kịp thời, hiệu quả các vấn đề phát sinh, bảo đảm nguồn cung, an ninh năng lượng (điện, xăng dầu), an ninh lương thực.

1.3. Quy mô, tiềm lực của nền kinh tế không ngừng được mở rộng[4]; tăng trưởng kinh tế khá tích cực trong bối cảnh, tình hình đầy khó khăn, thách thức. Tốc độ tăng GDP năm 2021 đạt 2,56%, được thế giới đánh giá là tích cực khi nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm (-); năm 2022 tăng 8,02% là điểm sáng trong bức tranh xám màu theo IMF đánh giá. Năm 2023, tăng trưởng kinh tế gặp thách thức lớn trước tác động kép” của tình hình thế giới, trong nước, nhưng đã chuyển biến tích cực, quý sau cao hơn quý trước[5].

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp xây dựng và dịch vụ[6]. Nông nghiệp tăng khá; dịch vụ phục hồi nhanh sau dịch bệnh COVID-19, năm 2022-2023 tăng trưởng cao[7]. Đầu năm 2023, công nghiệp tăng trưởng chậm lại, nhưng đã chuyển biến tích cực hơn. Xử lý hiệu quả, dứt điểm nhiều vấn đề tồn đọng của doanh nghiệp, dự án đầu tư. Tập trung xử lý các vấn đề bộc lộ, mới phát sinh của thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán[8]

1.4. Bội chi NSNN 03 năm ước ở mức 3,6% GDP (đã bao gồm bội chi cho Chương trình phục hồi và phát triển KTXH), trong phạm vi mục tiêu đề ra (3,7% GDP). Các chỉ tiêu an toàn nợ công 03 năm 2021-2023 dự kiến đều trong giới hạn cho phép. Đến hết năm 2022, dư nợ công là 38% GDP, dư nợ Chính phủ là 34,7% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 36,8% GDP, thấp hơn ngưỡng cảnh báo quy định của Quốc hội[9], góp phần củng cố xếp hạng tín nhiệm quốc gia[10].

1.5. Tiếp tục tập trung đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược. Chú trọng hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Trình Trung ương Đảng, Bộ Chính trị ban hành nhiều chủ trương lớn về đất đai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác xã, phát triển KTXH, bảo đảm quốc phòng, an ninh 6 vùng… Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua 33 luật, nghị quyết; ban hành nhiều nghị định, nghị quyết, văn bản bản chỉ đạo nhằm cụ thể hóa, tổ chức triển khai các luật, nghị quyết, cơ chế, chính sách đã ban hành và xử lý đồng bộ vướng mắc pháp lý trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, NSNN, đấu thầu, y tế, lao động... Quyết liệt cải cách hành chính, hoàn thiện bộ máy các bộ, cơ quan[11], sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, triển khai Đề án 06, xây dựng Chính phủ số[12]; thành lập các Hội đồng điều phối vùng và tổ chức xúc tiến đầu tư vùng.

Đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án chiến lược, quan trọng quốc gia, liên vùng. Hoàn thành, đưa vào khai thác 659 km đường cao tốc[13], nâng tổng số đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.822 km; khởi công 12 dự án thành phần đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông với tổng chiều dài 723,7km, 03 cao tốc trục Đông - Tây[14], Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, Vành đai 4 Hà Nội...; đẩy nhanh thủ tục đầu tư để phấn đấu tiếp tục khởi công một số dự án quan trọng trong cuối năm 2023[15]. Trình Quốc hội ban hành nghị quyết để tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ công tác quy hoạch[16]; đã ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch điện VIII, phấn đấu hoàn thành các quy hoạch trong năm 2023.

Đội ngũ trí thức, khoa học công nghệ phát triển, nhiều nhà khoa học có uy tín, được thế giới đánh giá cao[17]. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... tiếp tục được quan tâm, thúc đẩy, đóng góp ngày càng quan trọng vào tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh, cơ cấu lại nền kinh tế.

1.6. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội vẫn tiếp tục được quan tâm phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn; quán triệt, triển khai Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc; tổ chức tổng kết 80 năm ra đời Đề cương Văn hóa Việt Nam; phát huy truyền thống tốt đẹp, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn của dịch bệnh, thiên tai, bão lũ. Kịp thời hỗ trợ người dân, người lao động vượt qua khó khăn của dịch bệnh[18], khắc phục hậu quả thiên tai; hỗ trợ đối tượng chính sách trong các dịp Tết đến, xuân về, giáp hạt đầu năm.

Thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, chính sách với người có công đối với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi...; mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế[19]; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và bảo hiểm hàng tháng[20]. Công tác giảm nghèo đạt kết quả tốt[21]. Chất lượng giáo dục, đào tạo tiếp tục được nâng cao. Tăng cường kết nối cung - cầu, phát triển thị trường lao động; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị thấp hơn mục tiêu đề ra[22]. Chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam năm 2023 tăng 12 bậc lên vị trí 65[23].

1.7. Khai thác, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên, chú trọng bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, tài nguyên, nguồn nước; nỗ lực thực hiện cam kết tại COP26, huy động nguồn lực bên ngoài đầu tư phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long. Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về phát triển bền vững kinh tế biển; tập trung phòng, chống thiên tai, bão lũ, hạn hán, biến đổi khí hậu, ứng phó với các thách thức về nguồn nước xuyên biên giới.

1.8. Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật; đẩy nhanh tiến độ điều tra, xử lý dứt điểm các vụ án, vụ việc do Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực chỉ đạo, theo dõi, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân.

1.9. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh[24]; bảo đảm an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh mạng, trật tự an toàn xã hội; tích cực tham gia vào các vấn đề an ninh quốc tế, nâng cao trách nhiệm, hình ảnh Việt Nam.

1.10. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo, đi vào chiều sâu và thực chất hơn; các chương trình đối ngoại cấp cao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước được tổ chức chu đáo, thành công; ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

2. Khó khăn, hạn chế

2.1. Tăng trưởng kinh tế gặp nhiều thách thức, bình quân 2 năm 2021-2022 là 5,25%, 6 tháng đầu năm 2023 đạt 3,72%, tạo áp lực lớn lên các quý còn lại của năm 2023[25]. 8 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu ước giảm 10%, nhập khẩu giảm 16,2%; thu NSNN ước đạt 1.124,5 nghìn tỷ đồng, đạt 69,4% dự toán; tỷ lệ nợ xấu nội bảng cao hơn mục tiêu kiểm soát đề ra[26]; chỉ số lạm phát cơ bản vẫn ở mức cao[27], tiềm ẩn rủi ro đối với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Hoạt động của thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp còn khó khăn, tiềm ẩn rủi ro.

2.2. Sau thời gian dài chống chịu với đại dịch COVID-19, doanh nghiệp đang trong quá trình phục hồi, thì hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp khó khăn do nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu thấp, do chính sách bảo hộ thương mại của các nước và sự cạnh tranh của các nước xuất khẩu cùng mặt hàng như da giày, dệt may, thép, thủy sản. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

2.3. Việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, chưa tạo chuyển biến nhanh về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế[28]. Một số chính sách hỗ trợ trong Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia chậm so với tiến độ đề ra; giải ngân vốn đầu tư công đã được cải thiện đáng kể, nhưng chưa được như kỳ vọng. Việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập chưa đạt kế hoạch; một số doanh nghiệp, dự án có vốn đầu tư lớn của Nhà nước thua lỗ, hoạt động không hiệu quả, chậm tiến độ, vướng mắc về thủ tục pháp lý[29] Thu hút vốn FDI còn gặp nhiều thách thức, nhất là trong việc thu hút các dự án FDI quy mô lớn, công nghệ cao, có tính lan tỏa sâu, rộng, đóng góp lớn vào phát triển KTXH.

2.4. Những tồn tại cố hữu của nền kinh tế vẫn chậm được cải thiện như: năng lực nội tại, tính tự chủ, khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao; chưa có nhiều tập đoàn mạnh, quy mô lớn để dẫn dắt, tổ chức các chuỗi cung ứng, sản xuất trong nước; doanh nghiệp trong nước chủ yếu công nghệ sản xuất thấp, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu đầu vào.

2.5. Lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được cải thiện, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; thu nhập của người dân còn ở mức trung bình thấp, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn; an sinh xã hội, giảm nghèo còn nhiều thách thức. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển KTXH. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc có nơi chưa nghiêm; tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ dẫn đến sự trì trệ, kém hiệu quả trong giải quyết công việc, gây bức xúc trong xã hội. Tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, tội phạm ở một số địa bàn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, nhất là an ninh mạng, ma túy, tín dụng đen; còn xảy ra nhiều vụ việc đuối nước, bạo lực học đường, xâm hại trẻ em… Dịch bệnh, thiên tai, hạn hán tiếp tục diễn biến khó lường, gây hậu quả nặng nề.

3. Nguyên nhân kết quả đạt được và những hạn chế, khó khăn

Kết quả đạt được là nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự nỗ lực đổi mới đồng bộ, có hiệu quả về nội dung, phương thức hoạt động, sự đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, xử lý kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp; phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sự đồng lòng, chung sức của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

 Những hạn chế, bất cập, khó khăn của nền kinh tế có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, cần thời gian để phục hồi sau đại dịch COVID-19, vừa phải ứng phó với những tác động, ảnh hưởng mới từ bên ngoài, vừa phải giải quyết những hạn chế, bất cập nội tại. Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là việc nắm bắt và dự báo tình hình chưa sát; phản ứng chính sách của một số cơ quan, địa phương còn chậm, chưa kịp thời, có trường hợp thận trọng quá mức, làm tăng thêm áp lực cho nền kinh tế, chưa tận dụng hết các cơ hội phục hồi và phát triển từ bên trong và bên ngoài. Cơ chế, chính sách, pháp luật và công tác tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn hạn chế, bất cập, hiệu quả chưa cao; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc pháp lý chưa kịp thời, nhất là những vấn đề phát sinh mới; có lúc, có nơi còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, ngại khó; thủ tục hành chính còn rườm rà, ách tắc; phân cấp, phân quyền còn vướng mắc; trách nhiệm của người đứng đầu, người có thẩm quyền trong một số trường hợp chưa được phát huy đầy đủ. Tâm lý né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong một số trường hợp, trong một bộ phận cán bộ, công chức chưa được khắc phục.

4. Về bài học kinh nghiệm

4.1. Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; đồng hành, nắm bắt tình hình khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp; phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm; nắm chắc tình hình, chủ động ứng phó với các tình huống phát sinh. Chú trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần tự lực, tự cường; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tận dụng tốt các cơ hội để phát triển KTXH.

4.2. Quan tâm hơn việc nâng cao năng lực của hệ thống chính trị và năng lực quản trị xã hội, quản lý nhà nước và xử lý tình huống của các ngành, các cấp; nâng cao năng lực cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu các cấp; khen thưởng, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; chủ động, linh hoạt, thống nhất, phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện; đề cao trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, ngành đối với ngành, lĩnh vực quản lý.

4.3. Tiếp tục chú trọng rà soát, hoàn thiện thể chế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi; tăng cường phân công, phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực hiệu quả, phân bổ nguồn lực hợp lý. Phát huy hơn nữa tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; tránh độ trễ trong khâu triển khai nhằm gia tăng hiệu quả tác động của chính sách.

4.4. Bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, làm tốt công tác an sinh xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân; thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách đối với người có công, đối tượng yếu thế, giảm nghèo, dân tộc…

4.5. Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

4.6. Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan về tình hình KTXH, củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng phát triển, tạo đồng thuận cao trong xã hội.

II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIỮA NHIỆM KỲ VIỆC THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2021-2025

Ngay sau khi Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế 2021-2025 được ban hành, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng, ban hành và triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, trong đó giao 30 chỉ tiêu và 102 nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế cho các bộ, ngành, địa phương. Tính đến ngày 25/7/2023, có khoảng 35 trong 102 nhiệm vụ (34,3%) đã hoàn thành và có kết quả rõ ràng; 30/102 nhiệm vụ (29,4%) đang hoàn thiện trình cấp thầm quyền ban hành; 37/102 nhiệm vụ (36,3%) đang triển khai theo đúng kế hoạch. Việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận.

1. Kết quả đạt được

1.1. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực, được đẩy mạnh theo hướng số hóa, xanh hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP tiếp tục gia tăng[30]. Ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trở nên phổ biến trong các ngành, lĩnh vực, địa phương, gia tăng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế[31]. Các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh được đẩy mạnh. Nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ ngày càng phát triển. Cơ cấu ngành công nghiệp tiếp tục chuyển dịch tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, giảm dần ngành công nghiệp khai khoáng, chuyển dần từ các ngành thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp công nghệ cao. Cơ cấu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo trong kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng[32]. Một số ngành dịch vụ được hiện đại hóa như thương mại và thanh toán điện tử, ngân hàng điện tử, giáo dục đào tạo trực tuyến...; hình thành các sản phẩm dịch vụ hiện đại, chất lượng cao.

1.2. Cơ cấu lại một số lĩnh vực trọng tâm đã đạt được một số kết quả, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì đà tăng trưởng. Việc đẩy mạnh xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng, cơ cấu lại NSNN và đầu tư công đã tạo dư địa cho chính sách tài khóa và tiền tệ được sử dụng linh hoạt, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng, tăng tín nhiệm quốc gia[33] trong bối cảnh lạm phát của các nước tăng cao, đứt gãy một số chuỗi cung ứng, cầu quốc tế giảm mạnh. Những cải cách thể chế và chỉ đạo quyết liệt đối với các dự án đầu tư công đã gia tăng tốc độ giải ngân, bù đắp cho nguồn vốn khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài bị chững lại, góp phần phục hồi tăng trưởng[34].

1.3. Không gian kinh tế được mở rộng, tạo các động lực tăng trưởng mới, bền vững hơn. Hệ thống các quy hoạch được xây dựng, mở ra không gian phát triển mới. Hạ tầng đô thị, hạ tầng số[35], kết nối giao thông nội vùng, liên vùng, kết nối đô thị - nông thôn đạt được những kết quả vượt trội[36]. Cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết vùng, các cơ chế đặc thù đối với một số thành phố, địa phương được thực hiện, thúc đẩy dịch chuyển các nguồn lực, khai thác hiệu quả hơn lợi thế của các vùng, các địa phương. Cơ chế, chính sách đặc thù vùng đang được nghiên cứu. Hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo được đẩy nhanh tiến độ xây dựng.  

1.4. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, tạo điều kiện, hỗ trợ phát triển lực lượng doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Các giải pháp tháo gỡ vướng mắc, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh được thực hiện, cải thiện vị trí của nền kinh tế trong một số bảng xếp hạng quốc tế[37]. Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, khởi nghiệp sáng tạo, tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị... được tích cực triển khai. Đã hình thành một số doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế[38]. Ban hành và thực thi chính sách thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, kết nối với các doanh nghiệp trong nước.  

1.5. Các loại thị trường tiếp tục được chú trọng phát triển theo hướng bền vững hơn, đảm bảo huy động và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực. Nhiều văn bản pháp luật, chính sách đã được ban hành nhằm thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của các loại hình thị trường. Kịp thời ban hành các giải pháp điều hành, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong phát triển các thị trường, phù hợp với bối cảnh, nhất là thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ. Công nghệ số được thúc đẩy ứng dụng trong phát triển thị trường, hình thành các sàn giao dịch tập trung, đảm bảo thị trường hoạt động minh bạch, an toàn, lành mạnh.

2. Một số tồn tại, hạn chế và thách thức

2.1. Cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng chưa có nhiều thay đổi đáng kể. Mức độ cải tiện về năng suất, chất lượng chưa đạt như kỳ vọng, khả năng chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình 2021-2022 là 4,7%, thấp hơn so với mục tiêu đặt ra là 5,5%. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP tăng chậm, năm 2021 là 24,3, năm 2022 là 24,7%. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và xuất nhập khẩu, dễ bị tổn thương và khó phục hồi trước những biến động của kinh tế thế giới.

2.2. Phát triển lực lượng doanh nghiệp có dấu hiệu chững lại[39]. Khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước còn yếu và thiếu cả về số lượng và chất lượng, tốc độ tăng trưởng chậm lại, quy mô nhỏ, năng lực công nghệ hạn chế, chưa theo kịp tiến trình đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế số. Doanh nghiệp tư nhân trong nước tuy đã từng bước tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu nhưng chủ yếu vẫn ở những giai đoạn tạo ra giá trị gia tăng thấp. Mức độ liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp còn hạn chế, liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn yếu, chưa có nhiều cải thiện.

2.3. Các ngành kinh tế chưa chuyển dịch mạnh về tăng năng suất, nhất là khu vực công nghiệp và dịch vụ[40]; năng lực tự chủ và khả năng chống chịu còn nhiều hạn chế. Công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù là động lực tăng trưởng nhưng năng lực công nghệ của một số ngành công nghiệp nền tảng chậm được cải thiện, chưa đáp ứng được kỳ vọng phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu đầu vào. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp xuất khẩu dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, giá trị gia tăng tạo ra trong nước chưa đạt như mong muốn. Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ vẫn còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng, xuất khẩu dịch vụ còn hạn chế, các ngành sử dụng tri thức, khoa học công nghệ còn phát triển chậm. Du lịch phục hồi nhưng chưa nhanh đối với khách quốc tế.

2.4. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) còn chậm, chưa đáp ứng kỳ vọng. Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chậm; số lượng doanh nghiệp dự kiến cổ phần hóa, thoái vốn không nhiều, thu cổ phần hóa, thoái vốn đạt rất thấp. Công tác đổi mới quản trị DNNN theo các nguyên tắc và thông lệ quốc tế tốt, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại còn chậm, chưa phát huy được vai trò tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Cơ cấu lại các ĐVSNCL vẫn còn hạn chế, kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, chưa bảo đảm tinh gọn, hiệu quả hoạt động chưa cao; cơ chế, chính sách tự chủ của ĐVSNCL còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ, chưa phù hợp; thực hiện tự chủ đối với ĐVSNCL còn hạn chế. Các quy định, cơ sở pháp lý trong việc sắp xếp, tổ chức lại và thực hiện cơ chế tự chủ đối với các ĐVSNCL thuộc các bộ, ngành chậm được ban hành.

2.5. Cơ cấu lại một số lĩnh vực trọng tâm còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Một số quy định pháp luật liên quan đến đầu tư công như xây dựng, môi trường, đất đai, ngân sách... còn chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Thu ngân sách nhà nước (NSNN) chưa bền vững, chủ yếu vượt thu tiền sử dụng đất, thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Tình trạng gian lận, trốn thuế, quản lý thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, thương mại điện tử, kinh doanh xuyên biên giới vẫn còn diễn biến phức tạp. Công tác triển khai phân bổ dự toán chi NSNN chậm, nhất là các nhiệm vụ chi thuộc Chương trình phục hồi, chương trình mục tiêu quốc gia, giao chi tiết các nguồn vốn thuộc kế hoạch năm của một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, cơ chế hỗ trợ đối với TCTD tham gia xử lý/nhận chuyển giao bắt buộc các TCTD yếu kém. Cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém còn chậm, kéo dài. Nợ xấu vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thị trường mua bán nợ chậm phát triển.

2.6. Các loại thị trường hoạt động còn chưa hiệu quả, chưa đảm bảo điều kiện phát triển bền vững. Thị trường lao động còn nhiều hạn chế, còn vấn đề thiếu hụt lao động cục bộ tại một số địa bàn, lĩnh vực, chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường khoa học công nghệ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ. Thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, phát triển chậm lại, tiềm ẩn nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến việc phát triển các kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp, làm gia tăng áp lực lên hệ thống ngân hàng. Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp trầm lắng, tồn tại nhiều giao dịch phi chính thức không được quản lý; thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn, nhiều dự án bất động sản khó triển khai, cơ cấu sản phẩm không hợp lý, thiếu nhà ở cho công nhân, nhà ở xã hội.

III. DỰ BÁO BỐI CẢNH TRONG THỜI GIAN TỚI

Tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục biến động phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng phức tạp, gay gắt, xu hướng phân mảnh địa chính trị, địa kinh tế rõ nét hơn; sự điều chỉnh chiến lược, chính sách ở nhiều quốc gia ngày càng linh hoạt, phức tạp. Xung đột Nga - Ucraina kéo dài, tạo hệ lụy lâu dài đến an ninh - chính trị, kinh tế khu vực, toàn cầu. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là trung tâm phát triển năng động hàng đầu trên thế giới; tình hình Biển Đông tiếp tục phức tạp, khó lường.

WB (tháng 6/2023) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ tăng 2,4% năm 2024 và 3% năm 2025; trong đó các nền kinh tế lớn, đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam tăng trưởng thấp (tăng trưởng GDP của Mỹ năm 2024, 2025 là 0,8% và 2,3%, EU là 1,3% và 2,3%, Trung Quốc là 4,6% và 4,5%...). Lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm[41] nhưng vẫn ở mức cao; chính sách tiền tệ có thể sẽ bớt thắt chặt, nhưng diễn ra chậm[42]; rủi ro nợ công, thị trường tài chính - ngân hàng, bất động sản gia tăng tại một số nước. Thương mại toàn cầu tăng trưởng chậm lại, tiềm ẩn rủi ro về nguồn cung, nhất là các mặt hàng chiến lược như năng lượng, lương thực, chất bán dẫn[43]. Áp lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư gia tăng, nhất là với các nước đang phát triển. Thiên tai, dịch bệnh, bão lũ, hạn hán, an ninh nguồn nước và thách thức an ninh phi truyền thống phức tạp, khó lường, tác động mạnh hơn. Kinh tế xanh, kinh tế số, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành xu hướng lớn được các quốc gia lựa chọn.

Trong nước, tăng trưởng kinh tế được cải thiện; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên; tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô ổn định; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một số dự án, công trình quan trọng, trọng điểm có tác động lan tỏa lớn đi vào hoạt động. Chất lượng nguồn nhân lực tiếp tục được nâng lên. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện gắn với triển khai các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA… Khu vực tư nhân trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng và phát triển. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, y tế, giáo dục, môi trường tiếp tục được quan tâm; quốc phòng, an ninh, đối ngoại được củng cố, tăng cường; đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện.

Tuy nhiên, nền kinh tế tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Bên cạnh tác động từ bên ngoài, khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế không thể sớm khắc phục trong “một sớm, một chiều”; năng lực sản xuất, tính tự chủ của nền kinh tế, chất lượng thể chế, hạ tầng, dự án lớn mang tính đột phá, nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ,… chưa đáp ứng yêu cầu để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; khả năng vượt qua bẫy thu nhập trung bình và bắt kịp về trình độ phát triển với thế giới, khu vực tiếp tục là thách thức lớn nếu không có sự đột phá mạnh mẽ. Tốc độ già hoá dân số nhanh, chênh lệch giàu - nghèo, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu diễn biến khó lường, khó dự báo hơn, tạo áp lực lớn đối với phát triển KTXH…

Yêu cầu đặt ra không chỉ cần hóa giải các nguy cơ, thách thức, mà còn phải tích cực, chủ động trước thời cơ mới, tranh thủ mọi cơ hội, dư địa chính sách, nguồn lực để tận dụng thời gian, cơ hội phục hồi nhanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới như tăng trưởng xanh, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… nhằm thực hiện cao nhất các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm và 10 năm đã đặt ra.

IV. Khuyến nghị các giải pháp, chính sách hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025

1. Kiên định, nhất quán với mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Điều hành đồng bộ, linh hoạt các chính sách vĩ mô, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, cơ quan trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Phản ứng chính sách, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả để hóa giải thách thức, tận dụng các cơ hội cho phát triển.

2. Thúc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tập trung vào 03 động lực về tiêu dùng trong nước, đầu tư và xuất khẩu. Nghiên cứu, đánh giá kết quả tình hình thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, đề xuất ban hành mới hoặc kéo dài các chính sách tiền tệ, chính sách thuế, phí, lệ phí... để hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tranh thủ tối đa các thị trường xuất khẩu chủ lực, truyền thống, phát triển thị trường mới, thị trường ngách, đáp ứng nhanh, kịp thời yêu cầu mới của nước đối tác xuất khẩu; phát triển và khai thác hiệu quả thị trường trong nước. Đẩy mạnh thu hút đầu tư, hỗ trợ triển khai nhanh các dự án quy mô lớn, công nghệ cao, sức lan tỏa cao, tác động mạnh đến phát triển KTXH vùng, cả nước; phát huy hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.

Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong phát triển các loại thị trường, xây dựng và vận hành hiệu quả các sàn giao dịch tập trung. Phát triển thị trường vốn, nâng cao tính công khai, minh bạch, giám sát rủi ro. Tập trung phát triển thị trường lao động, tạo điều kiện cho người lao động được đào tạo kỹ năng đáp ứng yêu cầu, thực hiện hiệu quả Đề án nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam, Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông thôn. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó triển khai thực hiện quả Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ tri thức giai đoạn 2021 - 2030. Phát triển mạnh thị trường KHCN, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính cho KHCN, thúc đẩy thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.

3. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện thể chế, đảm bảo hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất; tổ chức triển khai nhanh, hiệu quả các luật, nghị quyết, cơ chế, chính sách sau khi được ban hành, nhất là Luật Đất đai, cơ chế đặc thù cho một số địa phương động lực (như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng…), các Nghị quyết phát triển vùng… Quyết liệt cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục hành chính, quy định kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; phát triển các loại thị trường an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, hội nhập. Tiếp tục rà soát, sắp xếp bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Khẩn trương rà sát, chỉnh sửa, bổ sung những quy định chưa phù hợp, gây cản trở quá trình cơ cấu lại nền kinh tế như các quy định, luật pháp về đất đai, xây dựng, quản trị DNNN, quản lý các ĐVSNCL, cung ứng dịch vụ công... Tập trung nguồn lực sửa đổi, bổ sung hệ thống các luật nhằm khai thác tốt hơn các cơ hội, tạo động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu theo hướng số hóa, xanh hóa, đổi mới sáng tạo như sửa đổi Luật NSNN, Luật các Tổ chức tín dụng, các luật thuế và ban hành các luật mới như Luật Phát triển công nghiệp, Luật Năng lượng tái tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số.

4. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; nghiên cứu và phát triển nhiều ngành công nghiệp mới, vật liệu mới[44]; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, khu vực tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Huy động nguồn lực hợp tác công tư và nguồn lực xã hội cho phát triển.

Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành các mục tiêu cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, gắn với trách nhiệm người đứng đầu, đơn giản hóa thủ tục, nâng cao hiệu quả đầu tư và phát huy mạnh hơn vai trò đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư nhân; thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngân sách nhà nước, hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, liên kết vùng, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, xây dựng khung pháp lý xử lý hiệu quả nợ xấu, tăng cường thể chế giám sát cẩn trọng, can thiệp kịp thời, xử lý ngân hàng và quản lý khủng hoảng, chấm dứt tình trạng sở hữu chéo. Cơ cấu lại hệ thống các TCTD, củng cố hệ số an toàn vốn, nâng cao năng lực quản trị. Đẩy mạnh hoàn thành các mục tiêu cơ cấu lại DNNN. Đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các ĐVSNCL, tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xã hội hóa.

Ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách cải thiện, nâng cấp chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Tăng cường thực hiện hiệu quả các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp như hỗ trợ tham gia chuỗi giá trị, chuyển đổi số, nâng cao năng suất, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ pháp lý... Ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích hình thành lực lượng doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và DNNN có vai trò dẫn dắt, mở đường trong một số lĩnh vực, ngành kinh tế. Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết và xúc tiến, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thế hệ mới, các nhà đầu tư chiến lược, phát triển các ngành kinh tế mới, có công nghệ hiện đại, có kế hoạch đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, có kết nối, chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp trong nước.

5. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các công trình giao thông trọng điểm[45]; hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, nhất là hạ tầng giao thông như hệ thống đường cao tốc theo tuyến Bắc - Nam và Đông - Tây, đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị dự án đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam, phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng số gắn với nâng cao năng lực nội tại; triển khai nhanh, hiệu quả Quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh...

Vận hành hoạt động hiệu quả các Hội đồng điều phối phát triển vùng, tổ chức thực hiện hiệu quả các cơ chế đặc thù đối với các tỉnh, thành phố. Ban hành các cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết vùng, vận hành hiệu quả Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, phát huy hiệu quả hơn vai trò của các đô thị lớn, hình thành các cực tăng trưởng, thúc đẩy tăng năng suất.

6. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu, xây dựng cơ chế để phát huy vai trò chủ đạo, động lực của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng.

7. Chú trọng phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội.

8. Thúc đẩy chuyển đổi xanh, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

9. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển.

Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành, phát huy sự chủ động, sáng tạo và nâng cao trách nhiệm người đứng đầu. Quán triệt các bộ, ngành, địa phương tập trung đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế trong nửa cuối kỳ kế hoạch với tinh thần chủ động và sáng tạo cao nhất, gắn với trách nhiệm người đứng đầu, quyết tâm tạo được những kết quả đột phá về tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực, tăng năng lực tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế.

10. Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm, bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh xã hội, an ninh công nhân.

11. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; đẩy mạnh hơn nữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

12. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, phát huy mạnh mẽ hơn vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước, củng cố và nâng cao hơn nữa vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.

 

 

 

[1] Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm 2021 tăng 1,84%, thấp nhất kể từ năm 2016; năm 2022 tăng 3,15% (mục tiêu đề ra là khoảng 4%); ước cả năm 2023 tăng khoảng 3,5% (mục tiêu đề ra khoảng 4,5%).

[2] Xuất siêu năm 2021 là 3,2 tỷ USD, năm 2022 là 12,4 tỷ USD; ước cả năm 2023 xuất siêu 14,4 tỷ USD.

[3] Tỷ trọng chi đầu tư phát triển bình quân trên 30% tổng chi NSNN (riêng dự toán năm 2023 là 35%), tỷ trọng chi thường xuyên khoảng 57-58% tổng chi NSNN, trong phạm vi mục tiêu đề ra cho cả 5 năm.

[4] Theo giá hiện hành, GDP năm 2021 đạt 8.479,7 nghìn tỷ đồng (tương đương 366,1 tỷ USD); ước tính năm 2022 đạt 9.513,3 nghìn tỷ đồng (tương đương 408,7 tỷ USD); ước tính năm 2023 đạt 10.286,8 – 10.384,6 nghìn tỷ đồng (tương đương 435,4 - 439,5 tỷ USD).

[5] Quý II đạt 4,14% cao hơn Quý I đạt 3,28%.

[6] Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP đã giảm từ 12,56% năm 2021 xuống 11,88% năm 2022; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 37,47% lên 38,26%; khu vực dịch vụ tăng từ 41,21% lên 41,33%. Ước cả năm 2023, tỷ trọng ba khu vực lần lượt là: 11,66-11,75%; 37,08-37,35%; 42,64-42,80%.

[7] Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ năm 2022 là 9,99%, 6 tháng năm 2023 khoảng 6,33%.

[8] Trong đó, triển khai đồng bộ các giải pháp để ổn định thị trường bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp; khắc phục tình trạng thiếu điện, cắt điện cục bộ, thiếu vật liệu xây dựng thông thường cho các dự án đường cao tốc; chấn chỉnh hoạt động đăng kiểm; rà soát, hoàn thiện quy định về phòng cháy, chữa cháy; khắc phục tình trạng thiếu vắc-xin cho Chương trình tiêm chủng mở rộng…

[9] Theo quy định tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội, các mức trần nợ tương ứng là 60%GDP, 50%GDP và 50%GDP; trong đó ngưỡng cảnh báo tương ứng là 55%GDP, 45%GDP và 45%GDP.

[10] Năm 2022, chỉ số nâng hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn Việt Nam được S&P đánh giá là BB+ (triển vọng ổn định); Moody's đánh giá là Ba2 (triển vọng ổn định).

[11] Đã cắt giảm được 17 tổng cục và tổ chức tương đương tổng cục, 10 cục và 144 Vụ, cục thuộc Tổng cục và thuộc Bộ.

[12] Cắt giảm, đơn giản hóa gần 2,2 nghìn quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tại 175 văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa gần 1,1 nghìn quy định. Công khai, cập nhật hơn 17,8 nghìn quy định trên Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh. Cung cấp hơn 4,4 nghìn dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Cổng Thông tin một cửa quốc gia đã có 250 thủ tục hành chính kết nối với hơn 55 nghìn doanh nghiệp tham gia.

[13] Các cao tốc: Cao Bồ - Mai Sơn, Mai Sơn - QL.45, Cam Lộ - La Sơn, Trung Lương - Mỹ Thuận, Vân Đồn - Móng Cái, Phan Thiết - Dầu Giây, Nha Trang - Cam Lâm, Vĩnh Hảo – Phan Thiết.

[14] Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Biên Hòa - Vũng Tàu, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng.

[15] Dự án đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hòa, Rạch Sỏi - Bến Nhất, Gò Quao - Vĩnh Thuận và Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn; cầu Đại Ngãi, Hòa Liên - Túy Loan.

[16] Đến thời điểm hiện tại đã có 74 quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh đã thẩm định xong; 16 quy hoạch đang được thẩm định; 17 quy hoạch đang trong quá trình xây dựng dự thảo và lấy ý kiến; 03 quy hoạch đang lựa chọn tổ chức tư vấn lập quy hoạch.

[17] Theo BXH của Research.com (tháng 3/2023), 13 nhà khoa học Việt Nam đang làm việc trong nước được xếp hạng thế giới ở 07 lĩnh vực: Khoa học máy tính, Kỹ thuật và Công nghệ, Khoa học Môi trường, Khoa học Vật liệu, Kỹ thuật cơ khí và Hàng không vũ trụ, Y học cộng đồng và Khoa học xã hội và nhân văn.

[18] Trong đó: đã hỗ trợ 45.662,502 tỷ đồng theo Nghị quyết số 68/NQ-CP; 41.046 tỷ đồng theo Nghị quyết số 116/NQ-CP, gần 3.760 tỷ đồng tiền thuê nhà theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg…

[19] Năm 2022, tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 38,07%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 31,18%, đạt mục tiêu đề ra; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 92,04% dân số. Ước thực hiện cả năm 2023, tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt khoảng 39%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng 31,5%, đạt mục tiêu.

[20] Nghị định số 42/2023/NĐ-CP ngày 29/6/2023

[21] Đến hết năm 2023, ước tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,93%, (giảm 1,1% so với cuối năm 2022); tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33% (giảm 5,62%); tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao.

[22] Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị năm 2021 là 4,33% (cao hơn mục tiêu đề ra 4% do tác động của dịch COVID-19), năm 2022 là 2,82%, năm 2023 ước là 2,9%.

[23] Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2023.

[24] Báo cáo Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 53-KL/TW về hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội giai đoạn 2021 - 2030; tổng kết Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ở các cấp chặt chẽ, chất lượng; sơ kết 05 năm thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị về Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chỉ thị số 12-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế,... cũng như nhiều kế hoạch, đề án xây dựng lực lượng quốc phòng, công an tiến lên chính quy, hiện đại để tham mưu ban hành các Nghị quyết, Kết luận, các định hướng, nhiệm vụ lớn, bảo đảm vững chắc quốc phòng an ninh trong tình hình mới.

[25] Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2023 là 6,5%, tăng trưởng 6 tháng cuối năm 2023 cần đạt khoảng 9% (tương ứng với kịch bản Quý III đạt 7,45%, Quý IV đạt 10,25%).

[26] Tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến hết tháng 6 là 3,36% (đến cuối năm 2025 là dưới 3%).

[27] Lạm phát cơ bản bình quân 08 tháng tăng 4,57% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức tăng CPI bình quân chung (3,1%).

[28] Tốc độ tăng năng suất lao động năm 2021, 2022 lần lượt là 4,6%; 4,8%, thấp hơn so với mục tiêu đặt ra là 5,5%; năm 2023 ước tính tăng 3,8 - 4,8%; bình quân 3 năm 2021-2023 tăng 4,36 - 4,69%, thấp hơn so với bình quân 3 năm 2016 - 2018 (6,26%). Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP tăng chậm, năm 2021 là 24,62%, năm 2022 là 24,76%; bình quân giai đoạn 2021-2023 ước tính khoảng 23,77-23,94% (bình quân giai đoạn 2016 - 2018 là 23,37%).

[29] Các công ty thuộc Tổng Công ty Xi măng Việt Nam hiện lỗ gần 300 tỷ đồng, lợi nhuận âm 144 tỷ đồng; Dự án Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội vay vốn ADB chậm tiến độ 12 năm…

[30] Tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 78,7% năm 2020 lên 79,6% năm 2022.

[31] Tổng cục thống kê đang tính toán số liệu chính thức. Theo kết quả tính sơ bộ của Bộ Thông tin truyền thông, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP năm 2022 là 14,26%, tỷ trọng kinh tế số trong lĩnh vực thông tin và truyền thông đạt khoảng 8,47%.

[32] Cơ cấu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo trong xuất khẩu tiếp tục tăng từ 85,19% năm 2020 lên 86,24% năm 2021 và 89% trong năm 2022.

[33] Năm 2022, xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Moody’s, S&P và Fitch. Fitch khẳng định mức xếp hạng của Việt Nam ở mức BB; triển vọng Tích cực. Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng Ổn định. S&P Global Ratings nâng bậc xếp hạng của Việt Nam lên BB+; triển vọng Ổn định.

[34] Tốc độ tăng vốn đầu tư từ NSNN năm 2022-2023 tăng hơn 15%/năm trong khi tốc độ tăng vốn đầu tư của khu vực tư nhân tương ứng là 8,9% và 5%.

[35] Năm 2022 đã phủ sóng thông tin di động băng rộng được 99,73% số thôn, bản trên toàn quốc. Trong đó vùng phủ 3G, 4G phục vụ trên 98% dân số. Các vùng lõm viễn thông tiếp tục được rà soát, hỗ trợ phủ sóng.

[36] Giai đoạn 2021-2023, chiều dài cao tốc hoàn thành trong 3 năm là 659 km, bằng 1/2 khối lượng đã triển khai trong gần 20 năm trước đây, khoảng 1.163km.

[37] Chỉ số Tự do kinh tế do tổ chức Heritage Foundation đánh giá tăng 6 bậc, từ vị trí thứ 90 năm 2021 lên vị trí thứ 84 năm 2022. Chỉ số thành phần Tự do kinh doanh tăng điểm mạnh với mức tăng 8,4 điểm (từ 65,2 lên 73,6 điểm). Chỉ số thành phần về thể chế trong chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) có mức độ cải thiện mạnh, từ vị trí thứ 83 năm 2021 lên vị trí thứ 51 năm 2022.

[38] Một số tập đoàn, công ty lớn như Vingroup, Vinamilk, TH…

[39] Tỷ lệ doanh nghiệp báo lãi giảm, số doanh nghiệp báo lỗ tăng; năng lực hấp thụ vốn hạn chế.

[40] Tốc độ tăng NSLĐ của 3 khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ các năm 2021, 2022 lần lượt là 2,3%, 5,8%; 5,23%, 3,47%; 5,04%, 3,41%.

[41] WB dự báo lạm phát toàn cầu có thể duy trì ở mức 5,2% vào năm 2023 trước khi giảm xuống 3,2% vào năm 2024, tuy nhiên vẫn cao hơn mức trung bình 2,3%/năm trong giai đoạn 2015-2019.

[42] Tháng 8/2023, tổ chức Goldman Sachs/Mỹ dự báo FED sẽ bắt đầu giảm lãi từ cuối tháng 6 năm 2024, với tốc độ vừa phải theo từng quý.

[43] Dự báo thương mại toàn cầu chỉ tăng 1,7% năm 2023 (năm 2022 là 5,7%), năm 2024 chỉ phục hồi nhẹ.

[44] Như: phát triển công nghiệp vi mạch bán dẫn, năng lượng hydrogen…

[45] Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam tuyến phía Đông (giai đoạn 1), giai đoạn 1 của các dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột...