Ngân hàng Chính sách xã hội
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, hạn chế phân hóa giàu nghèo, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững đất nước; thể hiện đặc trưng cơ bản, thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp hỗ trợ giảm nghèo, động viên được sự tham gia tích cực của toàn xã hội, góp phần đáng kể giảm số hộ nghèo, tăng số hộ khá, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Một trong những giải pháp mang lại hiệu quả là việc hình thành kênh tín dụng dành riêng cho người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, cụ thể hóa quy định của Luật các Tổ chức tín dụng về phát triển các ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Ngày 04/10/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác (sau đây gọi tắt là Nghị định số 78/2002/NĐ-CP). Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo.
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, đồng hành cùng với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, đặc biệt sau 9 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, với quyết tâm cao của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương; sự vào cuộc đồng bộ, kịp thời của cả hệ thống chính trị, NHCSXH đã triển khai tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng: đã huy động được nguồn vốn lớn, đa dạng; đáp ứng nhu cầu vay vốn của đông đảo người nghèo và các đối tượng chính sách khác ở 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước, trong đó, tập trung ưu tiên cho vay đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo..., góp phần thực hiện các chính sách xã hội, tạo sinh kế, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới.
Đến 31/8/2023, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đạt 325.221 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt 306.574 tỷ đồng, tăng 297.943 tỷ đồng so với thời điểm nhận bàn giao (gấp 35,5 lần), với hơn 6,6 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt khoảng 20,9%. Cùng với tăng trưởng quy mô tín dụng, chất lượng tín dụng chính sách xã hội thường xuyên được duy trì, củng cố, nâng cao; đến 31/8/2023, tổng nợ quá hạn và nợ khoanh là 1.889 tỷ đồng, chiếm 0,62%/tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn 571 tỷ đồng, chiếm 0,19%/tổng dư nợ.
Tín dụng chính sách xã hội được thiết kế thành hệ thống chính sách đồng bộ, hỗ trợ đa chiều, giúp giải quyết những vấn đề căn bản, thiết yếu trong cuộc sống của người nghèo, đối tượng chính sách khác; hạn chế, đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng của Đảng, Nhà nước, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tại vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; góp phần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng trong cả nước và thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng; tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Trong hơn 20 năm qua, vốn tín dụng chính sách xã hội đã giải ngân cho hơn 44.407 nghìn lượt hộ nghèo và các ĐTCS khác, hỗ trợ hơn 6,5 triệu hộ vượt ngưỡng nghèo; giải quyết việc làm cho gần 6,4 triệu lao động, trong đó, hỗ trợ hơn 147 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; hỗ trợ gần 3,9 triệu học sinh sinh viên được vay vốn đi học; xây dựng hơn 18 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; xây dựng hơn 729 nghìn căn nhà cho người nghèo và các ĐTCS khác; giải ngân cho 3.807 lượt doanh nghiệp (1.793 doanh nghiệp) với số tiền 4.829 tỷ đồng để trả lương cho 1.230 nghìn lượt lao động (gần 546 nghìn lao động) gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 trên địa bàn cả nước theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, số 68/NQ-CP và số 126/NQ-CP; thực hiện các chương trình tín dụng chính sách theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ đạt: 20.589 tỷ đồng, với trên 361 nghìn lượt khách hàng được vay vốn, trong đó: (i) chương trình cho vay học sinh sinh viên mua máy tính và thiết bị học tập trực tuyến đạt 834 tỷ đồng để mua hơn 89 nghìn máy vi tính và thiết bị phục vụ học tập trực tuyến; (ii) chương trình cho vay nhà ở xã hội đạt 7.790 tỷ đồng, hỗ trợ mua và xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho gần 21 nghìn căn nhà ở xã hội; (iii) chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm đạt 10.000 tỷ đồng, với hơn 211 nghìn khách hàng được vay vốn tạo việc làm; (iv) chương trình cho vay các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập đạt 153 tỷ đồng, cho hơn 2,6 nghìn cơ sở giáo dục được vay vốn; (v) chương trình cho vay theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP đạt 1.812 tỷ đồng với hơn 37 nghìn khách hàng vay vốn.
Để đạt được những kết quả như vậy, Ngân hàng Chính sách xã hội đã thiết lập được mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, phương thức cho vay đặc thù, hiệu quả, phù hợp, phát huy được vai trò và sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, góp phần tạo được lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Thông qua triển khai tín dụng chính sách xã hội, chính quyền cơ sở cũng có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với người dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn của người dân, góp phần củng cố hệ thống chính trị cơ sở, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Bên cạnh đó, sau 9 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND các tỉnh, thành phố, NHCSXH đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của NHCSXH, đặc biệt, bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn. Đến nay, nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương của các địa phương sang NHCSXH đã đạt 35.070 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 10,7%/tổng nguồn vốn của NHCSXH, tăng 31.262 tỷ đồng so với trước khi có Chỉ thị số 40-CT/TW. Hiện nay 100% đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện đã cân đối, ủy thác vốn ngân sách địa phương sang NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay.
Có thể nói, tín dụng chính sách xã hội là cầu nối hết sức thiết thực, hiệu quả, đã thực sự đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Trong đó, sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương và chính quyền địa phương là yếu tố quyết định trong việc thực hiện thành công tín dụng chính sách xã hội; đã khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, góp phần xây dựng tín dụng chính sách xã hội ngày càng sâu rộng và bền vững hơn. Với phương châm “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, NHCSXH đã xây dựng mạng lưới hoạt động rộng khắp toàn quốc, triển khai kịp thời, trên diện rộng chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ “nơi nào có người nghèo và đối tượng chính sách, nơi đó có NHCSXH”. Kết quả này đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành và đặc biệt là đông đảo quần chúng ghi nhận, đánh giá cao:
Thứ nhất: Tín dụng chính sách xã hội đã góp phần thực hiện thành công 03 chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; góp phần ngăn chặn tệ cho vay nặng lãi ở khu vực nông thôn và thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia; góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước: giai đoạn 2001-2005 từ 17% xuống 7%; giai đoạn 2005-2010 từ 22% xuống 9,45%; giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25%; giai đoạn 2016-2021 từ 9,88% xuống 2,23%.
Thứ hai, xây dựng thành công mô hình tổ chức đặc thù, hiệu quả, phù hợp với cấu trúc hệ thống chính trị, điều kiện thực tiễn đất nước, phát huy vai trò quản lý Nhà nước đối với tín dụng chính sách xã hội. Đồng thời, xây dựng và hoàn thiện bộ máy điều hành tác nghiệp, phát huy hiệu lực, hiệu quả, tổ chức điều hành quản lý vốn thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đáp ứng yêu cầu tổ chức, triển khai thực hiện tín dụng chính sách xã hội.
Thứ ba, xây dựng và tổ chức thực hiện thành công phương thức quản lý tín dụng chính sách xã hội hiệu quả, cách thức hoạt động nghiệp vụ sáng tạo, phát huy được vai trò và sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị trong công tác tín dụng chính sách xã hội, đó là: (i) Triển khai phương thức cho vay trực tiếp có ủy thác một số nội dung công việc trong quy trình cho vay thông qua Hội Nông dân Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; (ii) Phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính trị - xã hội thành lập hơn 168 nghìn Tổ Tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) ở thôn, ấp, bản, làng. (iii) Tổ chức giao dịch tại hơn 10,4 nghìn Điểm giao dịch xã trên địa bàn cả nước, xây dựng hệ thống dịch vụ gần dân, thân thiện và có trách nhiệm với dân, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính sách xã hội đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, đảm bảo dân chủ, công khai với cách thức “giao dịch tại nhà, giải ngân - thu nợ tại xã”. Mối quan hệ liên kết thông qua hoạt động tín dụng chính sách đã tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng, các tổ chức chính trị - xã hội gắn bó mật thiết với nhân dân, gần dân, hiểu dân, nắm bắt thực tế để xử lý công việc, nâng cao chất lượng hoạt động của chính mình và tạo điều kiện cho nhân dân giám sát việc thực thi chế độ, chính sách của Nhà nước. “Đây là chính sách xây dựng được mối liên kết tốt giữa Nhà nước, thông qua NHCSXH, với các tổ chức đoàn thể và người nghèo, phát huy được tính chủ động, nâng cao trách nhiệm của người nghèo với chính quyền cơ sở thông qua việc giữ mối liên hệ, hướng dẫn cách làm ăn, đôn đốc giải ngân, thu nợ của ngân hàng”[1].
Thứ tư, nhờ sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, NHCSXH đã tập trung huy động được nguồn vốn lớn, đa dạng, có sự tăng trưởng vượt bậc, tốc độ tăng trưởng ổn định qua các năm để thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội, tạo nguồn lực lớn, đáp ứng kịp thời, ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Trên cơ sở đó, từng bước mở rộng đối tượng, nâng mức cho vay, đáp ứng mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững và thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
Thứ năm, kết quả đạt được sau hơn 20 thực hiện Nghị định 78/NĐ-CP, 9 năm thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW đã khẳng định chủ trương của Đảng, giải pháp của Chính phủ là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp, thiết thực, có tính nhân văn sâu sắc, mang tính đột phá trong chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện tín dụng chính sách xã hội, góp phần quan trọng thực hiện các chủ trương, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước về tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, là yêu cầu có tính nguyên tắc bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các cấp, các ngành, tổ chức quốc tế và mọi tầng lớp nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tín dụng chính sách xã hội còn một số khó khăn cần khắc phục. Để giải quyết triệt để những khó khăn này, NHCSXH đề nghị các Bộ, ngành chức năng của Trung ương, các địa phương xem xét, giải quyết hợp lý, kịp thời các đề xuất, kiến nghị của Ngân hàng Chính sách xã hội đề xuất với Quốc hội, Chính phủ, tạo điều kiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội tiếp tục triển khai thực hiện tốt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa các chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục quan tâm, ưu tiên tập trung, bố trí nguồn vốn để phát huy vai trò của NHCSXH là ngân hàng chủ lực trong triển khai, thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Thứ hai, các cấp ủy đảng, bộ, ngành, chính quyền địa phương tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội theo Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư; quan tâm bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn; hỗ trợ về cơ sở vật chất, địa điểm, trang thiết bị, phương tiện làm việc nhằm nâng cao năng lực hoạt động của NHCSXH.
Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác tiếp tục phối hợp chặt chẽ với NHCSXH trong việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội; đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng chính sách xã hội đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Thứ tư, các bộ, ban, ngành cơ quan trung ương liên quan căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao rà soát, nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng chính sách xã hội; hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho NHCSXH trong triển khai thực hiện có hiệu quả mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng chính sách đặc thù.
Về phía NHCSXH, trong thời gian tới, tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư “Triển khai thực hiện có hiệu quả mô hình tổ chức và phương thức quản lý tín dụng chính sách xã hội dặc thù; chủ động thực hiện tốt việc huy động, quản lý và sử dụng vốn hiệu quả; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, hiện đại hóa ngân hàng. Nâng cao năng lực quản trị và công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, hoạt động nhận ủy thác của các tổ chức chính trị-xã hội và tình hình sử dụng vốn của người vay; phát triển các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ đem lại tiện ích cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác; tăng cường công tác đào tạo cán bộ, kiện toàn, bồi dưỡng nhân sự của hệ thống NHCSXH để thực hiện tốt công tác tín dụng chính sách xã hội trong tình hình mới”, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của NHCSXH là “nhà cung cấp tài chính vi mô lớn nhất Việt Nam và châu Á” và là chỗ dựa tin cậy của người nghèo, các đối tượng chính sách (theo nhận định của Ngân hàng Thế giới và các tổ chức quốc tế).
[1] Báo cáo số 660/BC-UBTVQH13 ngày 19/5/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội